Có rửa thì rửa chân tay, Chớ rửa lông mày, chết cá ao anh. . Tục ngữ Ca dao về hôn nhân gia đình Cô kia cắt cỏ một mình Cho anh cắt với chung tình làm đôi Chị em giúp của, ông trời định đôi. *Đôi ta như đũa trong kho, Không tề, không tiện, không so cũng bằng. *Còn duyên Oanh thật sự 'nể' cái dã tâm đó của chị ta", Phương Oanh từng viết. Phương Oanh và Shark Bình khoe ảnh hôn nhau, doanh nhân Đào Lan Hương thương con vì chưa từng được tổ chức sinh nhật Nữ doanh nhân đã có động thái bất ngờ giữa lúc mạng xã hội đang xôn xao với loạt ảnh của Phương Oanh và Shark Bình. Theo Công Tuấn Nguồn: Người đưa tin Fanpage Eva [FONT=arial, sans-serif] Cha Luca Phạm Quang Huy trả lời: [/FONT] Chào bạn, Câu hỏi của bạn có 2 ý: Ý thứ nhất: Theo luật giáo hội được áp dụng tại Việt Nam để đủ tuổi kết hôn thì người nam phải tròn 20 tuổi và người nữ tròn 18 tuổi. Đơn ly hôn là văn bản theo mẫu quy định mà vợ/chồng yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn và tuyên bố chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Tùy thuộc vào việc yêu cầu ly hôn từ một bên hoặc cả hai bên vợ, chồng mà đơn ly hôn cũng sẽ khác nhau, cụ thể: HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO. Lm. Antôn Hà văn Minh. WHĐ (6.7.2020) - Nhạc sĩ tác giả bài ca: "Tình người ngoại đạo" đã trình bày sự ngần ngại khi yêu người Công giáo: Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. WHĐ - Nhạc sĩ tác giả bài ca “Tình người ngoại đạo” đã trình bày sự ngần ngại khi yêu người Công giáo Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Tại sao lại ngần ngại, bởi có nhiều người hiểu lầm cứ ngỡ rằng đạo Công giáo là vật cản lớn nhất làm cho đôi bạn trẻ khó tiến tới hôn nhân, có bạn đã tâm sự “Em và cô ấy đã yêu nhau được hơn 5 năm. Chúng em yêu nhau rất chân thành, em vừa ra trường, công việc cũng ổn, em muốn kết hôn với cô ấy. Em về nhà và xin phép gia đình hai bên, nhưng hai bên đều không đồng ý vì cô ấy theo đạo Thiên Chúa, còn nhà em thì theo lương. Hai gia đình bất đồng quan điểm”. Quả thật, theo Giáo luật điều 1055 khoản 2 “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”. Có nghĩa là người Kitô hữu khi kết hôn thì hôn phối của họ cần phải được cử hành sao cho thích hợp để trở thành Bí tích, để được như thế điều kiện cần phải có là hai người phối ngẫu phải là Kitô hữu, vì chỉ có Kitô hữu mới có thể trở thành thừa tác viên trao bí tích hôn phối cho nhau. Nói như thế phải chăng Giáo hội Công giáo đang cướp đoạt sự tự do của tình yêu và đang giới hạn tình yêu trong khuôn khổ của niềm tin tôn giáo? Phải chăng Giáo hội Công giáo đang đòi hỏi việc tỏ bày tình yêu giữa người nam và người nữ phải được thể hiện như là một lời tuyên xưng đức tin? Thưa không phải thế, bởi Giáo hội luôn ý thức rằng, mình được hiện hữu nhờ bởi Thiên Chúa yêu thương. Tình yêu này được Thiên Chúa tỏ bày trước tiên qua công trình tạo dựng của Ngài. Sách Sáng Thế đã tường thuật “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Người. Người đã tạo dựng người nam và người nữ. Thiên Chúa thấy điều Người làm điều đó tốt và rất tốt St 1, 27. 31. Việc tạo dựng giống hình ảnh của Ngài chính là giống bản tính Ngài, một bản tính được thánh Gioan minh định Thiên Chúa là Tình yêu 1 Ga 4, 8, vì thế với hình ảnh giống Ngài, con người được mời gọi đi vào yêu thương và sự hiệp thông. Theo thần học Do thái, “vũ trụ được tạo dựng không phải để các tinh tú và các vật thể khác gia tăng trong đó, nhưng để có một không gian cho giao ước, để Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài và con người đáp lại”. Tạo dựng là để thực hiện cuộc đối thoại tình yêu của Thiên Chúa với con người, cuộc đối thoại được biểu tỏ trước tiên qua tình yêu mà người nam và người nữ tỏ bày cho nhau. 1. Hôn nhân tự nhiên Như vậy, qua việc tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để nơi người nam và người nữ một khả năng yêu thương giống như Thiên Chúa. Theo tường thuật trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng nên một mình Ađam trước nhưng ông đã không tìm thấy một niềm vui, ông cảm thấy cô đơn. Thiên Chúa hiểu nỗi cô đơn đó, nên Ngài đã phải thốt lên Con người ở một mình không tốt, nên Ngài đã tạo dựng thêm Evà, và khi vừa thấy Evà, Ađam đã thể hiện một niềm vui khôn tả, đến nỗi ông đã lìa bỏ mọi sự mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt X. St 2, 18-24. Việc lìa bỏ mọi sự để tìm đến với Evà và cả hai gắn kết với nhau để nên một xương một thịt, theo Đức Bênêđictô XVI trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” Deus caritas est, nói lên hai điều này “eros như được cắm rễ sâu trong bản tính của con người. Ađam luôn đi tìm và lìa cha mẹ”, để tìm người đàn bà; cả hai hợp lại mới nói lên tính trọn vẹn của con người, “cả hai trở thành một xương một thịt”. Điều thứ hai cũng quan trọng không kém ngay từ lúc sáng tạo, eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát”[1]. Quả vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người có nam có nữ và đặt để trong bản tính con người một yếu tố đặc biệt như động lực thúc đẩy họ tìm đến nhau để có thể kết hợp với nhau làm nên một thân xác, đó là yếu tố “tính dục” và là một phần làm nên tình yêu. Như vậy việc nam nữ tới tuổi trưởng thành thể hiện tình yêu dành cho nhau nó thuộc về bản chất, do đó, chẳng ai có quyền ngăn cản tình yêu. Bởi thế, Giáo Hội luôn tỏ lòng tôn trọng các cuộc hôn nhân tự nhiên hợp pháp. Cũng nên biết rằng, khi thiết lập định chế hôn nhân, Thiên Chúa ghi dấu ấn vào trong định chế này mang đặc tính đơn hôn và vĩnh hôn, như Công Đồng Triđentinô đã tuyên tín “Mọi hôn nhân hợp pháp do luật tự nhiên và thiên định đều vĩnh viễn và bất khả phân ly”, điều đó có nghĩa hôn nhân của những lương dân nếu không có ngăn trở theo luật tự nhiên và thiên luật thì được coi là hợp pháp. Quả thật, “Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những quy luật riêng cho cộng đồng của sự sống và tình yêu đầy thân mật giữa đôi vợ chồng. Cuộc sống chung đó được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là do sự ưng thuận không thể rút lại của từng cá nhân. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị ngay cả đối với xã hội. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, mối dây liên kết linh thiêng này không thể đặt dưới sự phân xử tùy tiện của con người” GS số 48. 2. Hôn nhân bí tích Câu hỏi được đặt ra là vậy tại sao Giáo hội lại không cho người Công giáo kết hôn với người ngoài Công giáo? Nói không cho là hoàn toàn sai. Như đã nói Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu giữa người nam và người nữ, Giáo hội tôn trọng sự tự do trong tình yêu và không bao giờ đưa ra một sự kỳ thị nào về tôn giáo, màu da, ngôn ngữ... Tuy nhiên, Giáo hội cũng ý thức về trách vụ của mình là phải chăm lo thiện ích cho con cái của mình, nhất là thiện ích về sự sống đời đời, sự sống mà Chúa Kitô đã hứa ban tặng cho những ai tin vào Người. Và vì thế, sự sống đời đời có một giá trị cao hơn các giá trị khác. Do đó, để giúp con cái của mình luôn trung thành với đức tin hầu có thể đạt tới sự sống đời đời, Giáo hội đồng ý cho phép con cái của mình kết hôn với người ngoài Giáo hội với một số điều kiện. Chung quy các điều kiện đó liên quan đến đời sống đức tin của người Công giáo, sự cho phép này theo thuật ngữ chuyên môn gọi là phép “chuẩn hôn phối”. Để hiểu rõ tại sao phải chuẩn hôn phối cho người Công giáo khi kết hôn với người ngoài Công giáo, trước tiên chúng ta nói về mầu nhiệm Giáo Hội. Giáo hội là một cộng đoàn được Chúa quy tụ trong đức tin. Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Người, tức Giáo hội, nói như thánh Phaolô Tông đồ “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” Rm 12,4-5. Như vậy, khi được tháp nhập vào thân mình huyền nhiệm này, tất cả mọi Kitô hữu không ai là người đơn lẻ trong Giáo hội, nhưng mọi người đều có sự hiệp thông và hiệp nhất tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này “là thành phần của Giáo hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu”[2]. Chính trong sự hiệp thông này Giáo hội được nhìn như một cộng đoàn đức ái, một cộng đoàn với dáng vẻ của một thục nữ và được gọi là hiền thê của Chúa Kitô. Hình ảnh Giáo hội như là Hiền Thê của Chúa Kitô được Công đồng Vat. II trình bày trong hiến chế Lumen Gentium “Giáo hội... được mô tả như hiền thê tinh tuyền của Con chiên không tì ố, được Chúa Kitô yêu mến và hiến thân để thánh hóa', được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly được nuôi dưỡng và săn sóc' không ngừng. Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín ” LG số 6. Khi trình bày hình ảnh Hiền thê, Công đồng Vat. II diễn tả đến mối tương quan đối đương giữa Chúa Kitô và Giáo hội được xây dựng trên tình yêu, mà thánh Phaolô trình bày như là tình yêu hôn nhân vợ chồng x. Ep 5, 21 - 32. Trong thư gởi tín hữu Êphêsô Thánh Phaolô đã trình bày mối tương giao giữa Chúa Giêsu và Giáo hội là mối tương giao trong tình nghĩa vợ chồng x. Ep 5, 21 - 33. Qua đó Thánh Tông đồ đã trình bày Chúa Giêsu như vị Hôn thê của Giáo hội, đã yêu thương Giáo hội như người bạn trăm năm. Qua mối tương giao Chồng - Vợ, Thánh Phaolô đã khám phá chiều kích hiệp thông nên một “thân mình” giữa Chúa Kitô và Giáo hội “…người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Giáo hội, vì chúng ta là một trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo hội” Ep 5, 29 - 32. Quả thật “Chúa Kitô yêu thương Giáo hội như hiền thê Người, Người trở thành gương mẫu của người chồng yêu thương vợ mình như yêu chính bản thân x. Ep 5, 25 - 28” x. LG số 7. Hiểu Giáo hội như thế, chúng ta mới nhận ra rằng, mỗi một Kitô hữu đều thuộc về dung mạo Hiền Thê Chúa Kitô, dung mạo đó được biểu lộ trong suốt đời sống của người Kitô hữu, cho nên việc kết hôn của người Kitô hữu không phải là một việc làm mang tính cá nhân, một công việc thuần tính tự nhiên, nhưng tự bản chất đó là công việc của Hội thánh, bởi mỗi tín hữu là một chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô, kết nên hình ảnh Hiền Thê của Người. Vì là công việc thuộc về Giáo hội, nên việc kết hôn của người tín hữu phải thực sự diễn tả trọn vẹn huyền nhiệm mà mình thuộc về, đó là huyền nhiệm yêu thương giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Bởi thế, việc kết hôn của người Kitô hữu phải thể hiện tính bí tích, đó là điều mà Giáo luật nói tới “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”[3]. 3. Hôn phối giữa người Công giáo và không Công giáo Vì là bí tích, nên việc kết hôn phải được cử hành giữa hai người đã được rửa tội, vì người không được rửa tội thì không có khả năng trao bí tích. Bởi bí tích hôn phối không đơn giản là một nghi lễ mang tính hình thức bên ngoài, không phải chỉ là một khế ước giữa người với người, nhưng đây còn là dấu chỉ thánh nhằm hướng tới một thực tại thánh thiêng, một thực tại trình bày lý do tại sao Giáo hội hiện hữu, đó là thực tại về một tình yêu vô cùng lớn lao mà Chúa Giêsu Kitô dành cho Giáo hội, nhờ tình yêu này, mà con người được quy tụ vào trong cung lòng của Giáo hội, nơi mà mọi người nhận được ơn cứu độ. Vì thế, sự kết hợp của vợ chồng trong hôn nhân diễn tả sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho Giáo Hội. Công đồng Vat. II đã nói đến hiệu quả mà bí tích hôn nhân mang lại 1 Khi hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của Chúa. 2 Đối với người Công giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. GS, số 48. Vì thế, bí tích hôn phối không phải chỉ được cử hành một lần trong nghi thức Phụng vụ, mà còn cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày giữa hai vợ chồng bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con yêu dấu của Ngài. Vì là dấu chỉ bí tích nên việc kết hôn của người Kitô hữu phải được thực hiện giữa hai người đã được rửa tội như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, tình yêu có bao giờ lại bị giới hạn trong một quy định, một giới luật! Đã là con người, cho dẫu xấu như Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng khao khát yêu và được yêu, thì có gì có thể ngăn cản tình yêu nảy nở giữa hai người khi đã bị tiếng sét ái tình đánh gục! Bởi đó Giáo Hội cũng luôn rộng lòng tạo điều kiện cho con cái của mình được thành hôn với những người chưa được rửa tội nếu họ yêu nhau, như đã nói, Giáo hội tạo điều kiện qua phép chuẩn. Phép chuẩn này cho phép người Kitô hữu được kết hôn với lương dân mà không vi phạm luật về bí tích Hôn phối. Việc cho phép này tạo điều kiện cho người tín hữu sau khi kết hôn được tiếp tục thi hành đời sống đức tin Công giáo của mình, cụ thể là được lãnh bí tích Hoà Giải và bí tích Thánh Thể, được tham dự cách tích cực vào các công việc mục vụ trong Giáo hội. Phép chuẩn hôn phối được ban do Đấng bản quyền địa phương. Theo Giáo luật khoản 1125 Nếu có lý do chính đáng và hợp lý, Bản quyền sở tại có thể ban phép ấy; tuy nhiên, đừng nên ban phép khi chưa hội đủ những điều kiện sau đây a. Bên Công giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh mọi nguy cơ làm tổn thất Đức tin, và hứa thành thật sẽ làm hết mọi sự có thể để con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo. b. Vào lúc thuận lợi, phải cho bên kia biết những lời hứa mà người Công giáo phải giữ, để chính họ được thực sự ý thức về lời hứa và bổn phận của bên Công giáo. c. Cả hai bên phải được giáo huấn về các mục đích và đặc tính cốt yếu của hôn phối, và không bên nào được loại bỏ các điều ấy. Việc chuẩn như thế để thấy một mặt Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu đôi lứa, đàng khác Giáo hội cũng không quên nhiệm vụ chính yếu của mình là luôn hướng dẫn con cái luôn đặt giá trị của ơn cứu chuộc lên hàng đầu. Việc kết hôn giữa một người Công giáo và lương dân không làm thành Bí tích Hôn phối, nhưng đặc tính hôn nhân vẫn có giá trị trọn vẹn, đó là bất khả phân ly và một vợ một chồng, và buộc hai bên phải tuân giữ, vì những đặc tính này không do bí tích Hôn phối mang lại, nhưng là do Thiên Chúa thiết định khi Ngài thiết lập định chế hôn nhân. 4. Những thách đố Trong khi đề cao tình yêu nam nữ và ban phép chuẩn cho các cuộc tình không cùng niềm tin Kitô giáo được tiến tới hôn nhân một cách hợp pháp, Giáo hội cũng nhắc nhở con cái của mình đừng quên rằng, trong cuộc sống gia đình, trước mặt còn đối diện với nhiều thách đố a- Về tính bền vững của hôn nhân Cha ông Việt Nam ta có câu “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, để nói lên tầm quan trọng của sự thuận thảo trong gia đình, nhất là giữa vợ chồng. Kiểu ông nói gà bà nói vịt thì gia đình không thể nào đạt tới sự thiện ích của nó. Việc thuận vợ thuận chồng không chỉ gói gọn trong các quyết định chỉ liên quan đến những thực tại trần thế như việc đầu tư, việc chọn vợ gả chồng cho con, việc giáo dục con cai... Nhưng còn có một thực tại quan trọng hơn nhiều đó là đời sống tâm linh. Quả thật, đời sống gia đình không luôn luôn là con đường trải đầy hoa hồng, nhưng có thể nói, vợ chồng luôn đối diện với bao thách đố của cuộc đời, bao là bão tố, bao là lo toan. Đứng trước những thách đố, vợ chồng cảm thấy như bất lực, mệt mỏi, chính niềm tin tôn giáo như là chiếc phao cứu sinh. Thế nhưng trong hoàn cảnh niềm tin tôn giáo không cùng song hành với hai vợ chồng thì quả thật đây là vấn đề nan giải. Chẳng hạn ngày Chúa nhật người Công giáo muốn đi lễ để thi hành trọn vẹn đời sống đức tin của mình, nhưng người không Công giáo lại có kế hoạch đưa cả gia đình đi chơi, hạt giống bất hòa bắt đầu được gieo; hay là những nan giải trong việc thờ cúng giỗ chạp giữa các tôn giáo, làm sao phận làm dâu, làm rể có thể chu tất mà không đi ngược lại với đức tin Công giáo? Rồi việc con cái có được rửa tội hay không theo điều đã cam kết?... Vô số vấn đề nảy sinh giữa hai niềm tin khác nhau trong đời sống vợ chồng, và thật là khó nghĩ khi hai người kết hợp nên một thân mình, nhưng trong thân mình đó lại đối kháng với nhau về niềm tin tôn giáo. Kết quả của sự đối kháng đó là sự bất hòa làm cho đời sống vợ chồng nên nặng nề, nảy sinh bao nhiêu là cuộc cãi vã và rồi sự thuỷ chung của đời sống vợ chồng từ từ gãy đổ. b- Về đời sống đức tin của người Công giáo Cho dẫu trong tờ cam kết xin chuẩn hôn phối bên Công giáo hứa sẽ trung thành trong đời sống đức tin, bên không Công giáo cam kết tôn trọng và tạo mọi điều kiện để bên Công giáo sống trọn vẹn với niềm tin của mình. Cam kết là thế, nhưng trong thực tế nhiều đôi hôn phối đã huỷ lời cam kết. Trong một thế giới tục hóa hôm nay, đứng trước trào lưu hưởng thụ ích kỷ, và đề cao các ngẫu tượng như tiền bạc thì quả thật đức tin của người Công giáo trong môi trường của gia đình vắng bóng gương sống đức tin của ông bà, lời nhắc nhủ của cha mẹ, đã bị lung lay và cuối cùng là sống xa lìa hẳn với đức tin Công giáo. Vâng, khi yêu nhau đôi bạn trẻ vẽ bao là mộng đẹp, nhưng khi bước vào cuộc sống hôn nhân mộng đẹp tan vỡ như giọt sương ban mai khi gặp ánh nắng mặt trời. Đức Phanxicô đưa ra lời nhận định “Chỉ khi đối diện với đời sống chung thường nhật, một cuộc sống đòi đôi vợ chồng phải hiến thân và hy sinh cho nhau, một số người mới nhận thấy mình đã không hiểu rõ hôn phối mà họ mới bắt đầu. Và họ thấy mình không thích hợp, nhất là khi phải đối chiếu với tầm mức và giá trị của hôn nhân Kitô, với những khía cạnh cụ thể, gắn liền với đặc tính bất khả phân ly của bí tích hôn phối, sự cởi mở đón nhận hồng ân sự sống và phải chung thủy với nhau”[4]. Vì thế, mục vụ cho các đôi hôn phối khác đạo luôn là nỗi trăn trở của các mục tử, mong tìm cách giúp cho đời sống gia đình của họ đạt tới hạnh phúc và thiện ích. Tuy nhiên, điều quan trọng trước tiên chính là ở nơi các bạn trẻ. Do đó, ước mong sao các bạn trẻ luôn tìm hiểu đúng đắn về người mình yêu, và nghiêm túc khi quyết định tiến tới hôn nhân với một ý thức trách nhiệm minh bạch rõ ràng. Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 115 tháng 11 & 12 năm 2019 [1] Đức Bênêđictô XVI, thông điệp Deus Caritas est, ban hành ngày 25-12-2005 tại Roma, số 11. [2] Đức Phanxicô, bài nói chuyện với khách hành hương tại Roma, ngày 19-6-2013 [3] Giáo luật Điều 1055 § 2 [4] Đức Phanxicô, bài nói chuyện vào ngày 27-9-2018 với 850 tham dự viên khóa huấn luyện về “hôn nhân và gia đình” do giáo phận Roma và tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma tổ chức từ ngày 24 đến 26-9-2018 tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano. Hôn nhân khác đạo là gì? Nghi thức kết hôn khác đạo Luật sư Luyện Ngọc Hùng 31-05-2023 Kiến thức pháp luật , 507 Lượt xem Hôn nhân khác đạo là gì? Nghi thức kết hôn khác đạo. Pháp luật quy định như thế nào về hôn nhân khác đạo. Cùng Luật Hùng Sơn theo dõi bài viết dưới đây Hôn nhân khác đạo là gì? Hôn nhân khác đạo tôn giáo là hôn nhân giữa một bên là Công giáo, và một bên không phải là công người công giáo. Tại Việt Nam, ngày nay vẫn có những quan điểm khắt khe đối với con cái trong hôn nhân khác tôn giáo. Nếu bên không Công giáo; nhưng đã được rửa tội trong Hội Thánh Tin Lành hay Chính Thống, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tín hay hôn nhân hỗn hợp. Nếu bên công giáo chưa được rửa tội; thì hôn nhân này được gọi là dị giáo hay gọi cách khác là hôn nhân khác đạo. Theo luật hiện hành của của Hội Giáo Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép rõ ràng của giáo quyền. Hôn nhân khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn rõ ràng của giáo quyền. Vì vậy, nếu hai người có ý định muốn kết hôn mà khác đạo giáo thì phải hiểu biết, chấp nhận mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân theo giáo lý Công giáo. Bên công giáo cam kết giữ đức tin của mình; bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo. Cũng cần phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy. Pháp luật quy định như thế nào về hôn nhân khác đạo? Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng; được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Đồng thời, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi hai bên kết hôn. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải đáp ứng một số điều kiện nêu tại điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn do hai bên tự nguyện quyết định; hai bên không bị mất năng lực hành vi dân sự; Không thuộc các trường hợp bị cấm kết hôn như kết hôn giả tạo, tảo hôn, cưỡng ép hôn nhân, đang có vợ hoặc chồng mà kết hôn với người khác, kết hôn trong phạm vi 3 đời… Đặc biệt, việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Nếu không đăng ký thì không có giá trị pháp lý và mối quan hệ đấy sẽ không được pháp luật công nhận. Tôn giáo không phải là rào cản khi kết hôn, pháp luật cũng không cấm những người khác tôn giáo không được kết hôn với nhau. Vì trong đạo thiên chúa nếu hai người khác đạo muốn kết hôn với nhau thì người không theo đạo chỉ cần học giáo lý hôn nhân tức là nếu một người muốn được công nhận hôn nhân khi kết hôn thì chỉ cần theo học giáo lý. Cũng có những trường hợp một bên không cần phải học giáo lý nếu bên còn lại không có yêu cầu. Lớp học giáo lý là hình thức chứ không phải sự ép buộc một người theo đạo, nên bạn có thể theo học và không cần phải đi lễ hằng tuần và chung sống vợ chồng trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Nghi thức cưới người khác đạo Hiện nay, khi lấy vợ/chồng theo đạo thiên Chúa, hôn lễ của bạn sẽ được cử hành ở nhà thờ. Bạn cần nhờ hai người có mặt làm chứng cho cô dâu chú rể đồng thời gửi nhẫn cưới cho cha để làm phép lên nhẫn. Một trong những nghi thức cưới thiêng liêng nhất khi lấy vợ/chồng theo đạo thiên chúa đó là bí tích hôn phối. Trước Chúa, đôi bên thề hứa chung thủy, chăm sóc nhau bất kể khi gian nan, lúc bệnh hoạn, đồng thời chấp nhận con cái chứa ban. Người theo đạo thường vừa học văn hóa ở trường và cũng đọc sách học các lớp giáo lý khai tâm và lãnh nhận bí tích giải tội cùng bí tích thánh thể. Sau đó họ sẽ học các lớp giáo lý thêm sức và lãnh nhận bí tích thêm sức. Thời gian hoàn thành các bí tích này thường rơi vào khoảng 6-7 năm. Nếu muốn lấy vợ/chồng theo đạo thiên chúa bạn sẽ phải học các lớp giáo huấn để theo kịp họ. Thông thường ít nhất cũng 6 năm. Tùy giáo xứ và chương trình học mà thời gian có thể kéo dài từ 6 đến 8 tháng. Lớp giáo lý tân tòng giúp học viên có thêm hiểu biết về tôn giáo và đón nhận đức tin với niềm tin trọn vẹn. Đồng thời bạn cần phải học thuộc các bài kinh theo yêu cầu theo yêu cầu của lớp giáo lý. Các tân tòng được tổ chức thánh lễ trọng thể và sẽ được lãnh nhận đồng thời các bí tích rửa tội, thêm sức, thánh thể. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý bí tích rửa tội và thêm sức cần có người đỡ đầu. Do đó, bạn cần nhờ một người cùng giới tính và có đạo đỡ đầu cho bạn. Và quan trọng nhất khi bạn đã chính thức được đón nhận là con Chúa, bạn phải hoàn thành điều răn “trong một năm phải xưng tội ít nhất một lần”. Trước khi tổ chức đám cưới trên thánh đường, thông tin hai bạn chuẩn bị kết hôn sẽ được thông báo trên nhà thờ trong ba thánh lễ chủ nhật liên tiếp. Mục đích chuyện này là để những ai có ý phản đối cuộc hôn nhân này sẽ có ý trình lên cha xứ. Tuy nhiên nếu muốn được thông báo thì ban phải xuất trình cho cha xứ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và chứng chỉ giáo lý hôn nhân. Nghi thức kết hôn khác đạo Giáo hội cho phép người công giáo kết hôn với người không theo công giáo qua việc “chuẩn hôn phối”. Phép chuẩn này được ban do đấng bản quyền địa phương. Để làm phép chuẩn hôn phối khác đạo cần chuẩn bị như sau Chứng chỉ giáo lý hôn nhân; Giấy đăng ký kết hôn; Nhẫn cưới; 2 người làm chứng cho hai bên; sổ gia đình công giáo bản chính. Bước 1 Học chứng chỉ giáo lý hôn nhân Bạn cần mang theo giấy giới thiệu từ Cha xứ họ đạo của mình và hai tấm hình thẻ đến xem lịch học và đăng ký lớp phù hợp. Thời gian học dự kiến khoảng 3 tháng. Bước 2 Đăng ký kết hôn Bạn đến UBND phường/xã nơi bạn sinh sống để đăng ký kết hôn, sau đó nộp một bản về cho Giáo xứ nơi bạn đăng ký làm phép chuẩn. Khi có đủ cả chứng chỉ giáo lý hôn nhân và Giấy đăng ký kết hôn. Đến nhà thờ để xin làm phép chuẩn khác đạo. Ngoài gia đình hai bên bạn cần nhờ 2 người làm chứng cho cuộc hôn nhân này, đồng thời chuẩn bị nhẫn cưới cho Cha để làm phép nhẫn. Bước 3 Làm phép chuẩn tại nhà thờ Sau khi đến nhà thờ làm đơn xin chuẩn khác đạo. Thông tin hai người kết hôn sẽ được thông báo khắp nhà thờ và kéo dài trong ba thánh lễ chủ nhật tiếp theo. Cha sẽ sắp xếp thời gian để tiến hành làm phép chuẩn ngoài thánh lễ. Trước chúa, đôi bên hứa thề chung thủy, chăm sóc nhau bất kể khi gian nan, lúc bệnh hoạn, đồng thời chấp nhận con cái chúa ban. Trên đây là toàn bộ thông tin của công ty Luật Hùng Sơn về “Hôn nhân khác đạo là gì? Nghi thức kết hôn khác đạo” Nếu quý khách hàng còn bất kỳ thắc mắc gì cần được giải đáp, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua Hotline 0964 509 555 hoặc đặt lịch ở văn phòng để được các chuyên viên tư vấn trả lời một cách nhanh gọn và chính xác nhất. Cảm ơn quý khách đã theo dõi bài viết. Trân trọng! About Latest Posts Ông Hùng đã làm việc cho Hùng Sơn Law từ những ngày đầu thành lập và có hơn 6 năm kinh nghiệm trong việc tư vấn và hành nghề luật sư tại Việt Nam liên quan đến các Dự án Đầu tư Nước ngoài và Trong nước; Sáp nhập và Mua lại; Luật Doanh nghiệp; Sở hữu trí tuệ. Với những kinh nghiệm có được luật sư Hùng chắc chắn sẽ giúp bạn giải quyết những vấn đề pháp lý đòi hỏi chuyên môn cao Tin mới Các tin khác Video tư vấn pháp luật Nhạc sĩ tác giả bài ca “Tình người ngoại đạo” đã trình bày sự ngần ngại khi yêu người Công giáo Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Tại sao lại ngần ngại, bởi có nhiều người hiểu lầm cứ ngỡ rằng đạo Công giáo là vật cản lớn nhất làm cho đôi bạn trẻ khó tiến tới hôn nhân, có bạn đã tâm sự “Em và cô ấy đã yêu nhau được hơn 5 năm. Chúng em yêu nhau rất chân thành, em vừa ra trường, công việc cũng ổn, em muốn kết hôn với cô ấy. Em về nhà và xin phép gia đình hai bên, nhưng hai bên đều không đồng ý vì cô ấy theo đạo Thiên Chúa, còn nhà em thì theo lương. Hai gia đình bất đồng quan điểm”. Quả thật, theo Giáo luật điều 1055 khoản 2 “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”. Có nghĩa là người Kitô hữu khi kết hôn thì hôn phối của họ cần phải được cử hành sao cho thích hợp để trở thành Bí tích, để được như thế điều kiện cần phải có là hai người phối ngẫu phải là Kitô hữu, vì chỉ có Kitô hữu mới có thể trở thành thừa tác viên trao bí tích hôn phối cho nhau. Nói như thế phải chăng Giáo hội Công giáo đang cướp đoạt sự tự do của tình yêu và đang giới hạn tình yêu trong khuôn khổ của niềm tin tôn giáo? Phải chăng Giáo hội Công giáo đang đòi hỏi việc tỏ bày tình yêu giữa người nam và người nữ phải được thể hiện như là một lời tuyên xưng đức tin? Thưa không phải thế, bởi Giáo hội luôn ý thức rằng, mình được hiện hữu nhờ bởi Thiên Chúa yêu thương. Tình yêu này được Thiên Chúa tỏ bày trước tiên qua công trình tạo dựng của Ngài. Sách Sáng Thế đã tường thuật “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Người. Người đã tạo dựng người nam và người nữ. Thiên Chúa thấy điều Người làm điều đó tốt và rất tốt St 1, 27. 31. Việc tạo dựng giống hình ảnh của Ngài chính là giống bản tính Ngài, một bản tính được thánh Gioan minh định Thiên Chúa là Tình yêu 1 Ga 4, 8, vì thế với hình ảnh giống Ngài, con người được mời gọi đi vào yêu thương và sự hiệp thông. Theo thần học Do thái, “vũ trụ được tạo dựng không phải để các tinh tú và các vật thể khác gia tăng trong đó, nhưng để có một không gian cho giao ước, để Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài và con người đáp lại”. Tạo dựng là để thực hiện cuộc đối thoại tình yêu của Thiên Chúa với con người, cuộc đối thoại được biểu tỏ trước tiên qua tình yêu mà người nam và người nữ tỏ bày cho nhau. 1. Hôn nhân tự nhiên Như vậy, qua việc tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để nơi người nam và người nữ một khả năng yêu thương giống như Thiên Chúa. Theo tường thuật trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng nên một mình Ađam trước nhưng ông đã không tìm thấy một niềm vui, ông cảm thấy cô đơn. Thiên Chúa hiểu nỗi cô đơn đó, nên Ngài đã phải thốt lên Con người ở một mình không tốt, nên Ngài đã tạo dựng thêm Evà, và khi vừa thấy Evà, Ađam đã thể hiện một niềm vui khôn tả, đến nỗi ông đã lìa bỏ mọi sự mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt X. St 2, 18-24. Việc lìa bỏ mọi sự để tìm đến với Evà và cả hai gắn kết với nhau để nên một xương một thịt, theo Đức Bênêđictô XVI trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” Deus caritas est, nói lên hai điều này “eros như được cắm rễ sâu trong bản tính của con người. Ađam luôn đi tìm và lìa cha mẹ”, để tìm người đàn bà; cả hai hợp lại mới nói lên tính trọn vẹn của con người, “cả hai trở thành một xương một thịt”. Điều thứ hai cũng quan trọng không kém ngay từ lúc sáng tạo, eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát”[1]. Quả vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người có nam có nữ và đặt để trong bản tính con người một yếu tố đặc biệt như động lực thúc đẩy họ tìm đến nhau để có thể kết hợp với nhau làm nên một thân xác, đó là yếu tố “tính dục” và là một phần làm nên tình yêu. Như vậy việc nam nữ tới tuổi trưởng thành thể hiện tình yêu dành cho nhau nó thuộc về bản chất, do đó, chẳng ai có quyền ngăn cản tình yêu. Bởi thế, Giáo Hội luôn tỏ lòng tôn trọng các cuộc hôn nhân tự nhiên hợp pháp. Cũng nên biết rằng, khi thiết lập định chế hôn nhân, Thiên Chúa ghi dấu ấn vào trong định chế này mang đặc tính đơn hôn và vĩnh hôn, như Công Đồng Triđentinô đã tuyên tín “Mọi hôn nhân hợp pháp do luật tự nhiên và thiên định đều vĩnh viễn và bất khả phân ly”, điều đó có nghĩa hôn nhân của những lương dân nếu không có ngăn trở theo luật tự nhiên và thiên luật thì được coi là hợp pháp. Quả thật, “Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những quy luật riêng cho cộng đồng của sự sống và tình yêu đầy thân mật giữa đôi vợ chồng. Cuộc sống chung đó được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là do sự ưng thuận không thể rút lại của từng cá nhân. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị ngay cả đối với xã hội. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, mối dây liên kết linh thiêng này không thể đặt dưới sự phân xử tùy tiện của con người” GS số 48. 2. Hôn nhân bí tích Câu hỏi được đặt ra là vậy tại sao Giáo hội lại không cho người Công giáo kết hôn với người ngoài Công giáo? Nói không cho là hoàn toàn sai. Như đã nói Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu giữa người nam và người nữ, Giáo hội tôn trọng sự tự do trong tình yêu và không bao giờ đưa ra một sự kỳ thị nào về tôn giáo, màu da, ngôn ngữ… Tuy nhiên, Giáo hội cũng ý thức về trách vụ của mình là phải chăm lo thiện ích cho con cái của mình, nhất là thiện ích về sự sống đời đời, sự sống mà Chúa Kitô đã hứa ban tặng cho những ai tin vào Người. Và vì thế, sự sống đời đời có một giá trị cao hơn các giá trị khác. Do đó, để giúp con cái của mình luôn trung thành với đức tin hầu có thể đạt tới sự sống đời đời, Giáo hội đồng ý cho phép con cái của mình kết hôn với người ngoài Giáo hội với một số điều kiện. Chung quy các điều kiện đó liên quan đến đời sống đức tin của người Công giáo, sự cho phép này theo thuật ngữ chuyên môn gọi là phép “chuẩn hôn phối”. Để hiểu rõ tại sao phải chuẩn hôn phối cho người Công giáo khi kết hôn với người ngoài Công giáo, trước tiên chúng ta nói về mầu nhiệm Giáo Hội. Giáo hội là một cộng đoàn được Chúa quy tụ trong đức tin. Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, và được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Người, tức Giáo hội, nói như thánh Phaolô Tông đồ “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” Rm 12,4-5. Như vậy, khi được tháp nhập vào thân mình huyền nhiệm này, tất cả mọi Kitô hữu không ai là người đơn lẻ trong Giáo hội, nhưng mọi người đều có sự hiệp thông và hiệp nhất tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này “là thành phần của Giáo hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu”[2]. Chính trong sự hiệp thông này Giáo hội được nhìn như một cộng đoàn đức ái, một cộng đoàn với dáng vẻ của một thục nữ và được gọi là hiền thê của Chúa Kitô. Hình ảnh Giáo hội như là Hiền Thê của Chúa Kitô được Công đồng Vat. II trình bày trong hiến chế Lumen Gentium “Giáo hội… được mô tả như hiền thê tinh tuyền của Con chiên không tì ố, được Chúa Kitô yêu mến và hiến thân để thánh hóa’, được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly được nuôi dưỡng và săn sóc’ không ngừng. Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín ” LG số 6. Khi trình bày hình ảnh Hiền thê, Công đồng Vat. II diễn tả đến mối tương quan đối đương giữa Chúa Kitô và Giáo hội được xây dựng trên tình yêu, mà thánh Phaolô trình bày như là tình yêu hôn nhân vợ chồng x. Ep 5, 21 – 32. Trong thư gởi tín hữu Êphêsô Thánh Phaolô đã trình bày mối tương giao giữa Chúa Giêsu và Giáo hội là mối tương giao trong tình nghĩa vợ chồng x. Ep 5, 21 – 33. Qua đó Thánh Tông đồ đã trình bày Chúa Giêsu như vị Hôn thê của Giáo hội, đã yêu thương Giáo hội như người bạn trăm năm. Qua mối tương giao Chồng – Vợ, Thánh Phaolô đã khám phá chiều kích hiệp thông nên một “thân mình” giữa Chúa Kitô và Giáo hội “…người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Giáo hội, vì chúng ta là một trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo hội” Ep 5, 29 – 32. Quả thật “Chúa Kitô yêu thương Giáo hội như hiền thê Người, Người trở thành gương mẫu của người chồng yêu thương vợ mình như yêu chính bản thân x. Ep 5, 25 – 28” x. LG số 7. Hiểu Giáo hội như thế, chúng ta mới nhận ra rằng, mỗi một Kitô hữu đều thuộc về dung mạo Hiền Thê Chúa Kitô, dung mạo đó được biểu lộ trong suốt đời sống của người Kitô hữu, cho nên việc kết hôn của người Kitô hữu không phải là một việc làm mang tính cá nhân, một công việc thuần tính tự nhiên, nhưng tự bản chất đó là công việc của Hội thánh, bởi mỗi tín hữu là một chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô, kết nên hình ảnh Hiền Thê của Người. Vì là công việc thuộc về Giáo hội, nên việc kết hôn của người tín hữu phải thực sự diễn tả trọn vẹn huyền nhiệm mà mình thuộc về, đó là huyền nhiệm yêu thương giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Bởi thế, việc kết hôn của người Kitô hữu phải thể hiện tính bí tích, đó là điều mà Giáo luật nói tới “Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích”[3]. 3. Hôn phối giữa người Công giáo và không Công giáo Vì là bí tích, nên việc kết hôn phải được cử hành giữa hai người đã được rửa tội, vì người không được rửa tội thì không có khả năng trao bí tích. Bởi bí tích hôn phối không đơn giản là một nghi lễ mang tính hình thức bên ngoài, không phải chỉ là một khế ước giữa người với người, nhưng đây còn là dấu chỉ thánh nhằm hướng tới một thực tại thánh thiêng, một thực tại trình bày lý do tại sao Giáo hội hiện hữu, đó là thực tại về một tình yêu vô cùng lớn lao mà Chúa Giêsu Kitô dành cho Giáo hội, nhờ tình yêu này, mà con người được quy tụ vào trong cung lòng của Giáo hội, nơi mà mọi người nhận được ơn cứu độ. Vì thế, sự kết hợp của vợ chồng trong hôn nhân diễn tả sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Sự hy sinh của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa dành cho Giáo Hội. Công đồng Vat. II đã nói đến hiệu quả mà bí tích hôn nhân mang lại 1 Khi hai người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì Bí tích hai người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc lành của Chúa. 2 Đối với người Công giáo, hôn nhân còn là môi trường giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể Họ dễ dàng xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. GS, số 48. Vì thế, bí tích hôn phối không phải chỉ được cử hành một lần trong nghi thức Phụng vụ, mà còn cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ thể trong đời sống thường ngày giữa hai vợ chồng bằng cách tận hiến cho Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn phối là một phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con yêu dấu của Ngài. Vì là dấu chỉ bí tích nên việc kết hôn của người Kitô hữu phải được thực hiện giữa hai người đã được rửa tội như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, tình yêu có bao giờ lại bị giới hạn trong một quy định, một giới luật! Đã là con người, cho dẫu xấu như Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng khao khát yêu và được yêu, thì có gì có thể ngăn cản tình yêu nảy nở giữa hai người khi đã bị tiếng sét ái tình đánh gục! Bởi đó Giáo Hội cũng luôn rộng lòng tạo điều kiện cho con cái của mình được thành hôn với những người chưa được rửa tội nếu họ yêu nhau, như đã nói, Giáo hội tạo điều kiện qua phép chuẩn. Phép chuẩn này cho phép người Kitô hữu được kết hôn với lương dân mà không vi phạm luật về bí tích Hôn phối. Việc cho phép này tạo điều kiện cho người tín hữu sau khi kết hôn được tiếp tục thi hành đời sống đức tin Công giáo của mình, cụ thể là được lãnh bí tích Hoà Giải và bí tích Thánh Thể, được tham dự cách tích cực vào các công việc mục vụ trong Giáo hội. Phép chuẩn hôn phối được ban do Đấng bản quyền địa phương. Theo Giáo luật khoản 1125 Nếu có lý do chính đáng và hợp lý, Bản quyền sở tại có thể ban phép ấy; tuy nhiên, đừng nên ban phép khi chưa hội đủ những điều kiện sau đây Bên Công giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh mọi nguy cơ làm tổn thất Đức tin, và hứa thành thật sẽ làm hết mọi sự có thể để con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo. Vào lúc thuận lợi, phải cho bên kia biết những lời hứa mà người Công giáo phải giữ, để chính họ được thực sự ý thức về lời hứa và bổn phận của bên Công giáo. Cả hai bên phải được giáo huấn về các mục đích và đặc tính cốt yếu của hôn phối, và không bên nào được loại bỏ các điều ấy. Việc chuẩn như thế để thấy một mặt Giáo hội luôn tôn trọng tình yêu đôi lứa, đàng khác Giáo hội cũng không quên nhiệm vụ chính yếu của mình là luôn hướng dẫn con cái luôn đặt giá trị của ơn cứu chuộc lên hàng đầu. Việc kết hôn giữa một người Công giáo và lương dân không làm thành Bí tích Hôn phối, nhưng đặc tính hôn nhân vẫn có giá trị trọn vẹn, đó là bất khả phân ly và một vợ một chồng, và buộc hai bên phải tuân giữ, vì những đặc tính này không do bí tích Hôn phối mang lại, nhưng là do Thiên Chúa thiết định khi Ngài thiết lập định chế hôn nhân. 4. Những thách đố Trong khi đề cao tình yêu nam nữ và ban phép chuẩn cho các cuộc tình không cùng niềm tin Kitô giáo được tiến tới hôn nhân một cách hợp pháp, Giáo hội cũng nhắc nhở con cái của mình đừng quên rằng, trong cuộc sống gia đình, trước mặt còn đối diện với nhiều thách đố a- Về tính bền vững của hôn nhân Cha ông Việt Nam ta có câu “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, để nói lên tầm quan trọng của sự thuận thảo trong gia đình, nhất là giữa vợ chồng. Kiểu ông nói gà bà nói vịt thì gia đình không thể nào đạt tới sự thiện ích của nó. Việc thuận vợ thuận chồng không chỉ gói gọn trong các quyết định chỉ liên quan đến những thực tại trần thế như việc đầu tư, việc chọn vợ gả chồng cho con, việc giáo dục con cai… Nhưng còn có một thực tại quan trọng hơn nhiều đó là đời sống tâm linh. Quả thật, đời sống gia đình không luôn luôn là con đường trải đầy hoa hồng, nhưng có thể nói, vợ chồng luôn đối diện với bao thách đố của cuộc đời, bao là bão tố, bao là lo toan. Đứng trước những thách đố, vợ chồng cảm thấy như bất lực, mệt mỏi, chính niềm tin tôn giáo như là chiếc phao cứu sinh. Thế nhưng trong hoàn cảnh niềm tin tôn giáo không cùng song hành với hai vợ chồng thì quả thật đây là vấn đề nan giải. Chẳng hạn ngày Chúa nhật người Công giáo muốn đi lễ để thi hành trọn vẹn đời sống đức tin của mình, nhưng người không Công giáo lại có kế hoạch đưa cả gia đình đi chơi, hạt giống bất hòa bắt đầu được gieo; hay là những nan giải trong việc thờ cúng giỗ chạp giữa các tôn giáo, làm sao phận làm dâu, làm rể có thể chu tất mà không đi ngược lại với đức tin Công giáo? Rồi việc con cái có được rửa tội hay không theo điều đã cam kết?… Vô số vấn đề nảy sinh giữa hai niềm tin khác nhau trong đời sống vợ chồng, và thật là khó nghĩ khi hai người kết hợp nên một thân mình, nhưng trong thân mình đó lại đối kháng với nhau về niềm tin tôn giáo. Kết quả của sự đối kháng đó là sự bất hòa làm cho đời sống vợ chồng nên nặng nề, nảy sinh bao nhiêu là cuộc cãi vã và rồi sự thuỷ chung của đời sống vợ chồng từ từ gãy đổ. b- Về đời sống đức tin của người Công giáo Cho dẫu trong tờ cam kết xin chuẩn hôn phối bên Công giáo hứa sẽ trung thành trong đời sống đức tin, bên không Công giáo cam kết tôn trọng và tạo mọi điều kiện để bên Công giáo sống trọn vẹn với niềm tin của mình. Cam kết là thế, nhưng trong thực tế nhiều đôi hôn phối đã huỷ lời cam kết. Trong một thế giới tục hóa hôm nay, đứng trước trào lưu hưởng thụ ích kỷ, và đề cao các ngẫu tượng như tiền bạc thì quả thật đức tin của người Công giáo trong môi trường của gia đình vắng bóng gương sống đức tin của ông bà, lời nhắc nhủ của cha mẹ, đã bị lung lay và cuối cùng là sống xa lìa hẳn với đức tin Công giáo. Vâng, khi yêu nhau đôi bạn trẻ vẽ bao là mộng đẹp, nhưng khi bước vào cuộc sống hôn nhân mộng đẹp tan vỡ như giọt sương ban mai khi gặp ánh nắng mặt trời. Đức Phanxicô đưa ra lời nhận định “Chỉ khi đối diện với đời sống chung thường nhật, một cuộc sống đòi đôi vợ chồng phải hiến thân và hy sinh cho nhau, một số người mới nhận thấy mình đã không hiểu rõ hôn phối mà họ mới bắt đầu. Và họ thấy mình không thích hợp, nhất là khi phải đối chiếu với tầm mức và giá trị của hôn nhân Kitô, với những khía cạnh cụ thể, gắn liền với đặc tính bất khả phân ly của bí tích hôn phối, sự cởi mở đón nhận hồng ân sự sống và phải chung thủy với nhau”[4]. Vì thế, mục vụ cho các đôi hôn phối khác đạo luôn là nỗi trăn trở của các mục tử, mong tìm cách giúp cho đời sống gia đình của họ đạt tới hạnh phúc và thiện ích. Tuy nhiên, điều quan trọng trước tiên chính là ở nơi các bạn trẻ. Do đó, ước mong sao các bạn trẻ luôn tìm hiểu đúng đắn về người mình yêu, và nghiêm túc khi quyết định tiến tới hôn nhân với một ý thức trách nhiệm minh bạch rõ ràng. Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 115 tháng 11 & 12 năm 2019 [1] Đức Bênêđictô XVI, thông điệp Deus Caritas est, ban hành ngày 25-12-2005 tại Roma, số 11. [2] Đức Phanxicô, bài nói chuyện với khách hành hương tại Roma, ngày 19-6-2013 [3] Giáo luật Điều 1055 § 2 [4] Đức Phanxicô, bài nói chuyện vào ngày 27-9-2018 với 850 tham dự viên khóa huấn luyện về “hôn nhân và gia đình” do giáo phận Roma và tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma tổ chức từ ngày 24 đến 26-9-2018 tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano. Lm. Antôn Hà văn Minh Hôn nhân khác đạo Một thách đố chính cho Giáo hội tại Nam Á ChâuLm. Giuse Vương Sĩ TuấnWHĐ – Khóa họp Toàn thể Thường lệ lần thứ 14 của Thượng Hội đồng Giám mục diễn ra từ ngày 04 đến ngày 25 tháng Mười tại Vatican năm 2015. Có hơn 360 tham dự viên, trong đó có 18 đôi vợ chồng từ khắp nơi trên thế giới, tham dự và thảo luận về “Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay”. Trong một loạt chương trình, trang tin Công giáo, giới thiệu những vấn đề mục vụ và những thách đố của các gia đình ngày nay ở khắp các khu vực mà chúng tôi phụ trách đưa tin. Bài hôm nay đề cập đến những gia đình hôn nhân khác đạo tại khu vực Nam Á Châu. Các nghị phụ cho biết chủ điểm của các cuộc thảo luận tại Thượng Hội đồng là vấn đề gia tăng các cuộc hôn nhân khác đạo trong khu vực Nam Á và những thách đố mục vụ do vấn đề này đem lại.“Ngày càng có nhiều người trẻ nam và nữ của chúng ta học tập và làm việc với những người ngoài Kitô giáo, phát triển những tương quan, quyết định tiến đến hôn nhân,” cha Mintu Lawrence Palma, phụ trách Ủy ban Gia đình thuộc Tổng giáo phận Dhaka nói. Tình trạng ở quốc gia Bangladesh của cha Palma với đa số người Hồi giáo cũng là tình trạng của Ấn Độ có đa số theo Ấn giáo, Pakistan Hồi giáo và Sri Lanka chủ yếu theo Phật giáo. Người Công giáo trong khu vực là một thiểu số rất nhỏ - chỉ 1,5% trong tổng số 1,6 tỉ người của khu vực này.“Chúng tôi không khuyến khích hoặc ngăn cản những cuộc hôn nhân khác đạo,” cha Palma đã cho biết, còn cha Stephan Alathara, phó tổng thư ký Hội đồng Giám mục theo nghi lễ Latinh của Ấn Độ nhấn mạnh rằng điều này diễn ra bởi những cuộc di dân trong nước, nhu cầu về việc làm, nhu cầu học tập thúc ép hàng ngàn người trẻ Công giáo rời bỏ làng quê và gia đình của họ đến sống và làm việc trong những cộng đoàn đậm chất thành thị hơn, là nơi mà tôn giáo không phải là một yếu tố của cộng Lobo Gajiwala là một người Công giáo sống tại thành phố Mumbai, đã kết hôn với người Ấn giáo cách nay 25 năm, nói rằng thách đố thật sự của những cuộc hôn nhân khác đạo xảy ra khi người phối ngẫu ngoài Kitô giáo vẫn giữ niềm tin của họ và con cái không được rửa những tình huống như thế, “những người Công giáo đứng bên lề những cộng đoàn đức tin của chúng ta, cùng với những gia đình không lãnh nhận phép rửa và những đôi hôn phối không hợp luật, và làm cho họ cảm thấy không được các giám mục, linh mục và giáo dân đón nhận”, Gajiwala người lãnh đạo Giáo hội như cha Joseph Chinnayan, phó tổng thư ký Hội đồng Giám mục Quốc gia Ấn Độ, trong khi khẳng định những cuộc hôn nhân khác đạo ngày càng phổ biến hơn trong những thành phố và đô thị, nhấn mạnh rằng, “khá thường xuyên chúng tôi không nhìn thấy đời sống gia đình trên nền tảng đức tin trong những cuộc hôn nhân như thế” bởi vì cha mẹ “thất bại trong việc nuôi dạy con cái sống đời sống bí tích, trong một cộng đoàn đức tin.”Cha nói thêm “Hơn nữa, những khác biệt đức tin của hai người phối ngẫu cũng ảnh hưởng đến đời sống gia đình của họ.”Một xu hướng gia tăng, một thách đố lớnTại Bangladesh, những cuộc hôn nhân khác đạo giữa những người Công giáo, hiện nay khoảng 10 – 12 %, là một xu hướng đang gia tăng, và là “một thách đố lớn” đối với Giáo hội, cha Palma nhận tự, cha Alathara chỉ ra rằng Giáo hội tại Ấn Độ không có con số rõ ràng nào về các cuộc hôn nhân khác đạo nhưng “theo kinh nghiệm mục vụ chúng tôi biết con số này đang gia tăng”.Sự kiện gia tăng những cuộc hôn nhân khác đạo là một mối quan tâm của Giáo hội tại Pakistan, Đức cha Joseph Coutts của Giáo phận Karachi cho biết; ngài là chủ tịch Hội đồng Giám mục Quốc gia và là đại diện duy nhất của Pakistan tham dự Thượng Hội cuộc hôn nhân khác đạo giữa phụ nữ Công giáo và người Hồi giáo đang gia tăng, điều này có thể hiểu được vì Pakistan là quốc gia đa số người Hồi giáo, Đức cha cho nhiên, “tôi cũng buồn mà nói rằng hầu hết những cuộc hôn nhân ấy không hạnh phúc,” ngài nói, nhấn mạnh rằng trong hầu hết các trường hợp, người phụ nữ Công giáo kết hôn với người Hồi giáo sẽ phải theo Hồi giáo, mặc dù khi cử hành hôn phối, “có đủ thứ cam kết và hứa hẹn”.“Một thiếu nữ Hồi giáo kết hôn với một thanh niên Công giáo là điều hoàn toàn không thể xảy ra và nếu xảy ra, đôi vợ chồng phải sống trong sự che giấu mãi mãi. Đối với một người Hồi giáo, việc cưới người vợ thứ hai là hoàn toàn hợp pháp. Vì thế có thể lại nảy sinh thêm vấn đề, nếu một người đàn ông Hồi giáo lựa chọn kết hôn thêm một lần nữa sau khi đã cưới người vợ Kitô giáo,” ngài hướng này cao nhất ở Sri Lanka, nơi đa số dân theo Phật giáo. Chẳng hạn tại Giáo phận Galle, hơn 70 % các cuộc hôn nhân diễn ra giữa người Phật giáo và Công giáo, cha Stephen Perera, giám đốc Văn phòng Gia đình của Giáo phận, cho biết. Cha nói thêm “Tỷ lệ ly dị của những cuộc hôn nhân khác đạo cũng trên 60 %.”Cha nói tiếp “Những đôi hôn nhân khác đạo có những vấn đề nghiêm trọng và gây ra những khủng hoảng giữa họ với cha mẹ của họ,” bởi vì những Phật tử lớn tuổi tin rằng kết hôn với một người khác đạo cũng giống như từ bỏ di sản và truyền thống gia đình của mình Chinnayan, người Ấn Độ, tin rằng Thượng Hội đồng sắp tới sẽ đưa ra một số hướng dẫn mục vụ cụ thể để giúp các mục tử trong vùng, còn cha Palma cho rằng Giáo hội không có “bất cứ cách tiếp cận mục vụ thích hợp nào để cung cấp động lực và trợ giúp” cho các gia đình khác đạo đang gặp khó khăn.“Giáo hội ném tôi ra ngoài”Sanju Thomas, một người Công giáo kết hôn với bạn trai của cô là người Ấn giáo cách nay 15 năm và hiện đang sống tại New Delhi, nói rằng cuộc hôn nhân của cô không được cử hành long trọng tại nhà thờ và cha mẹ cô phải đưa ra lời xin lỗi cha xứ vì quyết định của cô trong cuộc hôn nhân này.“Tôi chẳng bao giờ xin, cũng chẳng bao giờ lãnh một bí tích nào” sau khi kết hôn vì “tôi không bao giờ cảm thấy cần đến các bí tích”, cô đã nói với như vậy. Sanju, nay đã có hai con, nói rằng “đức tin của cô không đi qua Giáo hội” và cô tin rằng giữa đời sống thiêng liêng và những quy định của Giáo hội có sự đối nói “Không phải tôi rời khỏi Giáo hội. Giáo hội đã ném tôi ra ngoài,” và thêm rằng “cô chẳng màng bận tâm” tìm hiểu xem luật của Giáo hội nói gì khi cô quyết định kết hôn với người chồng theo Ấn hội coi hôn nhân của một người Công giáo với một người không Kitô giáo là vô hiệu theo giáo luật, nếu việc cử hành không có phép chuẩn của giám mục địa phương, cha Chinnayan, nguyên chủ tịch hội giáo luật của Ấn Độ, cho chuẩn được ban với điều kiện người phối ngẫu ngoài Kitô giáo không từ chối đức tin của người phối ngẫu Công giáo và con cái của họ sẽ được nuôi dạy trong đức tin Công giáo. Ngay cả khi có phép chuẩn, hôn phối được tổ chức đơn giản và không có thánh lễ, theo như luật định, cha cho cả khi người Công giáo kết hôn ngoài Giáo hội, họ không bị từ chối các bí tích hoặc bị vạ tuyệt thông, cha Arthur Charles, nguyên Tổng đại diện Tổng giáo phận Karachi, khẳng nói thêm “Chừng nào họ không từ bỏ đức tin và vẫn sống đời sống Công giáo, họ không bị từ chối sự hiệp thông và con cái họ cũng được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy”.Tuy nhiên, vượt trên những lý thuyết và luật lệ, “Giáo hội cần học biết từ cuộc sống của những gia đình như thế đâu là những vấn đề của họ và họ muốn gì ở nơi Giáo hội,” Gajiwala, một thần học gia hàng đầu và cũng là bác sĩ y khoa có những đóng góp thường xuyên cho các tạp chí Công giáo, đã đưa ra nhận xét này.“Vấn đề là thế này Bạn có muốn chấp nhận những cuộc hôn nhân khác đạo không, hay bạn muốn ngăn chặn chúng?” cô đặt câu hỏi, và thêm rằng nếu Giáo hội chấp nhận điều này như một thực tế sẽ tiếp tục diễn ra, “Giáo hội phải xét lại nền thần học của mình.”“Thần học về hôn nhân và toàn bộ thần học về các bí tích phải được duyệt xét lại để làm cho Giáo hội mở ra với thực tại hôn nhân khác đạo,” cô chép của Stephan Uttom tại Dhaka,Quintus Colombage tại Colombo,Zahid Hussain tại Karachivà Christopher Joseph tại KochiTrích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 115 tháng 11 & 12 năm 2019 Hôn nhân khác đạo hay còn được gọi là hôn nhân dị giáo từ lâu vẫn luôn là một trong những vấn đề nhạy cảm và có nhiều tranh luận trái chiều. Có không ít luồng tư tưởng cực đoan cho đến nay vẫn hoàn toàn không ủng hộ hôn nhân khác đạo và một số tôn giáo đã khắt khe ngăn cấm các tín đồ của mình kết hôn với người ngoài tôn giáo. Tuy nhiên, xuất phát từ quyền tự do tín ngưỡng, tự do hôn nhân, đây không còn là một trong những vấn đề cấm kị của các giáo phái nữa. Quan điểm của bạn đọc là như thế nào? Quan niệm về hôn nhân khác đạo Giữa muôn vàn nhân duyên gặp gỡ, kết giao, một mối quan hệ có tiến triển thành tình yêu hay không đôi khi không phụ thuộc vào niềm tin tôn giáo mà xuất phát từ sự đồng điệu trong tâm hồn và con tim. Tuy nhiên, sự hòa hợp trong tình yêu và hôn nhân lại là 2 phạm trù hoàn toàn khác nhau. Khi yêu, mối quan hệ lúc này chỉ dừng lại giữa 2 con người và các bạn có thể nghĩ rằng chỉ cần tình yêu là đủ sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Điều đó đúng nhưng chưa đủ bởi không phải ngẫu nhiên mà chuyện khác tôn giáo luôn là trở ngại lớn trong vấn đề hôn nhân giữa các cặp đôi. Cũng phải thừa nhận thêm rằng, tính đến chuyện trăm năm, có rất nhiều luồng ý kiến, dư luận từ gia đình và xã hội bắt đầu xâm chiếm suy nghĩ và làm suy giảm những nhiệt tình hôn nhân ban đầu của họ. Theo như những gì mà nhiều người đang quan niệm, hôn nhân khác đạo gần như không được khuyến khích vì sự khác biệt trong niềm tin tôn giáo có thể sẽ là căn nguyên ảnh hưởng không tốt đến hạnh phúc tương lai và đó sẽ trở thành mối bận tâm, lo lắng chung cho cả 2 phía. Ai sẽ là người từ bỏ, ai sẽ là người chi phối? Không thực sự có câu trả lời nào đúng cho tất cả. Tôn giáo có thực sự là trở ngại của hôn nhân? Tại sao vấn đề tôn giáo lại trở thành rào cản hôn nhân khác đạo? Không hiếm trường hợp hôn nhân giữa một người phụ nữ theo Phật Giáo lấy chồng theo đạo Thiên chúa Giáo hoặc ngược lại thường gặp những bất đồng về tín ngưỡng, quan điểm sống, nghi lễ hành xử và mâu thuẫn ngay cả trong việc giáo dục con cái trước tuổi vị thành niên. Vì vậy, hôn nhân hỗn hợp đối với họ là một sai lầm mà chỉ khi thành vợ thành chồng những vấn đề này mới thực sự nảy sinh và tạo ra xung đột, bế tắc. Đây là hệ quả tất yếu của việc bị chi phối quá nhiều bởi những quan niệm cực đoan, khắt khe dẫn tới những mâu thuẫn hôn nhân, mâu thuẫn gia đình, thậm chí là xung đột tôn giáo. Rõ ràng nguyên nhân không nằm ở tình yêu đôi lứa mà ở chính những quan niệm, tư tưởng chủ quan của con người. Về bản chất, có thể thấy tôn giáo cũng là một dạng ý thức hệ. Chính sự khác biệt giữa 2 luồng tư tưởng sẽ là ngòi nổ cho nhiều cuộc xung đột trong gia đình, thậm chí dẫn đến đổ vỡ không gì cứu vãn nổi. Vì lẽ đó, quan niệm cho rằng hôn nhân khác đạo thường không dẫn đến hạnh phúc cũng có lý lẽ riêng khi đứng trên góc độ của những người đứng đầu tôn giáo và cha mẹ 2 bên. Hội giáo có thể vẫn tôn trọng tự do hôn nhân của đôi bạn nhưng mặt khác vẫn tồn tại sự dè dặt, cẩn trọng. Vậy nên lựa chọn tiếp tục hay dừng lại thì chỉ có người trong cuộc mới quyết định được cho chính tương lai của mình mà thôi. Tình yêu và niềm tin tôn giáo Nhiều cặp vợ chồng đã đủ dũng cảm vượt qua rào cản tôn giáo để tiến tới hôn nhân nhưng rốt cuộc đời sống gia đình sau khi kết hôn lại không thực sự êm ả. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hôn nhân chỉ hạnh phúc thực sự khi cả hai cùng một niềm tin, tín ngưỡng. Thực tế là cũng có nhiều cặp vợ chồng khác tôn giáo vẫn sống hạnh phúc vì không chỉ đã biết dung hòa và tôn trọng đức tin của bạn đời mà còn của cả gia đình hai bên vợ chồng. Đề cập đến góc nhìn này để thấy rằng ai cũng mong muốn vừa có một tình yêu chân thật, vừa có cùng một niềm tin tôn giáo như một điều kiện để tìm được hạnh phúc. Vậy thì tại sao ngay từ đầu giữa muôn vàn mối nhân duyên ta lại không lựa chọn con đường thuận lợi để hôn sự được như ý? Và nếu niềm tin tôn giáo quyết định đến tình yêu và hạnh phúc lứa đôi thì tại sao bạn phải bất chấp tất cả để được ở bên nhau dẫu ngay từ khi bắt đầu đã biết rằng khó lòng hạnh phúc? Thực tế là, với những người theo tôn giáo, không ai muốn mình là người yếu thế trong niềm tin nhưng dù là đạo giáo nào thì cũng luôn phải xuất phát từ tình yêu thương con người. Bởi vậy, thay vì áp đặt niềm tin tôn giáo có thể làm tổn thương đến tình yêu và lòng tự trọng của mỗi bên, hạnh phúc hôn nhân nên là kết quả của quá trình chung sống, vun đắp, gìn giữ, trân trọng và vượt qua thử thách của cả hai người. Đường đến hạnh phúc của hôn nhân khác đạo Tìm tiếng nói chung trước hôn nhân Hôn nhân giữa một người có tôn giáo và một người không tôn giáo thường thuận lợi hơn là hôn nhân khác đạo. Vì vậy, trước khi chính thức bước vào cuộc hôn nhân nhiều khó khăn, thử thách này, hai bạn phải chuẩn bị tinh thần để biết kiềm chế bản thân trong cuộc sống chung sau này, không bao giờ tranh cãi về vấn đề tôn giáo. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra cũng phải luôn tôn trọng niềm tin của nhau. Cả hai cùng tạo điều kiện cho nhau trong việc thực hành niềm tin tôn giáo, tránh tối đa sự tranh luận về tôn giáo, hay những so sánh có ý hạ thấp tôn giáo khác. Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác được xem là hành vi ứng xử có văn hoá. Ở một phương diện khác, việc tiến đến hôn nhân khác đạo là một trải nghiệm không phải ai cũng được trải qua. Thông qua cuộc hôn nhân này người trong cuộc có thể thấy được sự trưởng thành của chính bản thân mình khi phải đặt lên bàn cân sự lựa chọn về cả 2 thứ quan trọng trong đời. Nếu các bạn muốn cùng chung sống dưới một mái nhà thì nguyên tắc đầu tiên là tuyệt đối tôn trọng lẫn nhau, đạo ai nấy giữ bởi niềm tin tôn giáo là điều thiêng liêng, bất khả xâm phạm và không thể nhân danh tình yêu mà để niềm tin đó bị xúc phạm. Khi không tìm được tiếng nói chung thì tốt nhất không nên đi đến kết hôn bởi bản chất của hôn nhân ngoài tình yêu còn cần phải có sự tôn trọng, bình đẳng và tương kính lẫn nhau. Dung hòa mối quan hệ gia đình của một cuộc hôn nhân khác đạo Cởi bỏ giáo điều trong hôn nhân là hướng đi tích cực của con người văn minh, hiện đại. Có thể trong quan hệ hôn nhân khác đạo, các bên đều đưa ra những lý do để bảo vệ quan điểm của mình, nên sự việc rất dễ rơi vào bế tắc, khó thông cảm được với nhau. Tuy nhiên, tôn giáo không hề có lỗi, bởi bất kỳ tôn giáo nào ra đời cũng đều mong muốn mang hạnh phúc đến cho mọi người. Chân thành, trung thực, yêu thương, vị tha, chung thủy… là những tính cách mà các tôn giáo đều khuyến khích tín đồ của mình thực hành. Vì thế hãy để hai người tự do thể hiện điều đó trong cuộc sống của mình theo những cách khác nhau nhưng tựu chung lại vẫn là hướng đến những điều thiện lành. Thêm một vấn đề khác nữa là sau khi có thể tiến tới hôn nhân trên nguyên tắc tự điều chỉnh hành vi, ngôn ngữ, thái độ của mình trước các quan hệ ứng xử thì hãy tiếp tục duy trì điều đó ngay cả khi nuôi dạy con cái. Thay vì ép buộc cực đoan con cái phải theo tôn giáo của ai, hãy để các con lĩnh hội, tiếp xúc tự nhiên với cả hai truyền thống tôn giáo của cha và mẹ. Thêm vào đó, cho đến khi các con trưởng thành, theo tôn giáo nào là quyết định riêng của mỗi cá nhân và bản thân cha mẹ hai bên cũng cần tôn trọng lựa chọn đó. Đôi điều chia sẻ Thực tế đã chứng minh rằng ngoài tình yêu thì một cuộc hôn nhân có bền vững được hay không thì giữa 2 người trong cuộc còn cần có sự hiểu biết và tôn trọng nhau. Nếu làm được điều đó thì dù là hôn nhân khác đạo hay hôn nhân cùng đạo vẫn sẽ đạt được kết quả hạnh phúc và viên mãn. Chúc hôn nhân của các bạn không gặp trở ngại và thành công! Xem thêm Làm sao để thoát khỏi khủng hoảng tiền hôn nhân? Hôn nhân mệt mỏi- Làm sao để đối phó 6 điều chưa ai nói với bạn về hôn nhân Vào ngay Fanpage của theAsianparent Vietnam để cùng thảo luận và cập nhật thông tin cùng các cha mẹ khác! Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay!

hon nhan khac dao